Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014
Chiến dịch Operation Babylift di tản trẻ mồ côi hàng chục năm sau: “Em đã về nhà”
Những căn số không may mắn Cách đây chưa lâu, một đoàn du khách Mỹ gồm 38 người đã đến Việt Nam trong một chuyến du lịch có tên là “Hành trình về nguồn”. Những hành khách đặc biệt này trên 30 tuổi, phần nhiều đã lập gia đình, có một cuộc sống ổn định. Khác chăng chỉ là họ có một mối hệ trọng từ tuổi thơ với Việt Nam và khi trở về quê hương họ đã là những người trưởng thành. Chuyến về TP HCM chỉ kéo dài 2 ngày nhưng có điều chắc chắn chuyến trở về mang nhiều ý nghĩa đối với những người lúc ra đi chỉ là những đứa trẻ còn khóc oe oe trên các chuyến bay bão táp. Sau khi có lệnh sơ tán trẻ mồ côi, trẻ thơ lai ở Sài Gòn của Chính phủ Mỹ, một chiến dịch tản cư quy mô lớn đã được khai triển. Bà Leann Thieman, một viên chức tự nguyện của chiến dịch này, kể lại: “Chúng tôi không có thời giờ cho trẻ ăn, các em nhỏ thì cứ 3 em được đặt trong thùng giấy carton, mỗi em có một bình sữa đặt trên vai người bạn nằm cùng thùng. Với cách này, có em bú thoải mái nhưng cũng có em gặp khó khăn khi bình sữa rơi khỏi miệng…”. Người lớn đi theo gồm nhân viên phi hành đoàn và những người tự nguyện. Bà Miriam Vieni, một người hoạt động xã hội cũng là mẹ nuôi của một trẻ mồ côi người Việt, nhớ lại: “Điều kì lạ là sau khi biết thông tin về chiến dịch di tản, số cuộc gọi từ những gia đình có nhu cầu nhận con nuôi liên tiếp đổ dồn. Họ mong nhận nuôi những trẻ Việt qua Chiến dịch Operation Babylift dù khi đó các em còn chưa lên phi cơ”. Cặp vợ chồng Pat và Dave Palmer từ Iowa (Mỹ) kể lại việc làm thủ tục nhận con nuôi: “Khi nộp đơn xin con nuôi, chúng tôi phải tiến hành thủ tục một cách mau lẹ. Chúng tôi phải dùng đến điện tín để giao thông và kết quả là chúng tôi có một cậu con nuôi 1 tuổi. Thế cục chúng tôi đã thay đổi từ đó”. Tại Úc, trong bản bẩm về tình trạng nhận con nuôi qua Chiên dịch Operation Babylift, Ian Harvey cho biết: “Tháng 4/1975, khi có tin nước Úc sẽ hấp thụ trẻ mồ côi Việt Nam làm con nuôi, rất nhiều gia đình người Úc đã nộp đơn. Riêng tại bang New South Wales là nơi đến của 14 trẻ Việt nhưng số đơn xin nhận con nuôi đã vượt con số 4.000”. Theo báo cáo Ian Harvey, có trên 90% gia đình Úc có con nuôi người Việt ghi nhận sự thành công của việc họ nhận con nuôi. Tuy nhiên, đối với những gia đình tiếp thụ con nuôi từ 4 tuổi trở lên gặp khó khăn hơn những người khác vì càng lớn trẻ mồ côi càng khó thích ứng hơn với cuộc sống mới. Những ánh mắt trẻ con nhìn qua cửa sổ phi cơ rời quê hương. Ảnh: T.L Cho đến bây giờ, vẫn chưa có con số xác thực trẻ mồ côi được sơ tán khỏi Sài Gòn. Có khoảng 2.000 trẻ được đưa sang Mỹ, khoảng 1.300 trẻ được di tản đến Canada, châu Âu và Úc. Lúc đó, dư luận Mỹ bị phân hóa vì những ý kiến đối lập nhau về Operation Babylift. Bà Miriam Vieni giảng giải về những quan điểm tương phản nhau trong việc đưa trẻ mồ côi người Việt sang Mỹ: “Một số người cho rằng đưa con nít ra khỏi nhà nước nơi các em sinh sống là sự vi phạm quyền thiêng liêng của con người khi các em chưa đủ trí khôn để quyết định. Một số người lại nghĩ những trẻ mồ côi người Việt phải được chính người Việt giải quyết. Trên TV, một số khác đưa ra trường hợp vì sao không chiếu cố đến trẻ mồ côi người Mỹ gốc Phi còn đang chờ các gia đình Mỹ nhận nuôi?”. Về phía các gia đình Mỹ nhận con nuôi người Việt cũng có những nghĩ suy cho rằng những đứa con mà họ nuôi nấng, dạy bảo bấy lâu nay vẫn còn một hố sâu ngăn cách vô hình. Một cuộc khảo sát cho thấy, những trẻ mồ côi có một cuộc sống khá đầy đủ trong suốt thời kỳ ấu thơ. Nhưng đến thời đoạn trưởng thành, những đứa trẻ mồ côi ngày nào sẽ có những nghĩ suy, dằn vặt về cỗi nguồn. Tiếng “Má ơi, má ơi” vang lên hàng chục năm sau Hình ảnh một một số trẻ mồ côi trong chuyến về Việt Nam mang tên “Hành trình về nguồn”.Ảnh: TL Nguyễn Thị Thanh Trúc là một trẻ thuộc Viện Mồ côi tại Ghềnh Ráng, Quy Nhơn, Bình Định. Năm 1975, Thanh Trúc được Operation Babylift đưa sang Mỹ làm con nuôi một gia đình tại Seattle, tiểu bang Washington. Với cái tên Julie, Thanh Trúc được nuôi dạy và lớn lên như bất kỳ một đứa trẻ nào ở Mỹ. Khác biệt độc nhất là Julie có vóc người châu Á nhỏ bé hơn so với bạn bè. Hiện thời Julie đã lập gia đình với Brad Davis và trở nên bà Julie Davis. Lần trước tiên trở về Việt Nam cùng chồng trong nửa tháng trời, Julie kể lại: “Chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam kéo dài hơn 20 giờ mà tôi có cảm tưởng dài đến 20 năm. Khi tàu bay đáp xuống trường bay Tân Sơn Nhất, Brad vỗ vai tôi, ý nhị: “Chúng ta đã đến nơi. Em đã về nhà’… Sau khi đi thăm TP HCM, Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi về lại Quy Nhơn và đến tận Viện mồ côi Ghềnh Ráng để thăm lại nơi xuất xứ của tôi…”. Cô nhi viện Ghềnh Ráng tọa lạc trong khuôn viên một nhà thờ và do các nữ tu đảm nhiệm. Qua người thông ngôn, Julie tìm lại được bà sơ Emilienne, người đứng tên trên giấy khai sinh của Thanh Trúc. Người nữ tu chỉ biết mẹ của Thanh Trúc đã tắt thở ngay sau khi sinh con nên bà đứng tên trên giấy khai sinh. Nguồn cội của Julie chỉ có thế nhưng cũng đủ để cô tìm hiểu về quá vãng của mình. Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc chia tay. Julie viết: “Cuộc hành trình ngắn ngủi để tìm lại kí vãng của tôi đã chấm dứt nhưng dư vang của nó vẫn còn vĩnh viễn đọng lại trong tôi. Giờ thì tôi kiêu hãnh là người có gốc, cho dù cỗi nguồn đó cách nơi tôi sinh sống đến nửa vòng Trái đất”. Tháng 4/2013, NXB Trẻ đã cho ra mắt tập phóng sự “Những mảnh đời được ban tặng - Chiến dịch không vận con nít Việt Nam 1975” của tác giả Dana Sachs (Hoàng Nhương dịch), tác giả đã thuật nhiều câu chuyện cảm động, trái cựa trong chiến dịch này. Hoàng Anh, một bà mẹ với một nách 7 người con tản cư từ cao nguyên miền Trung vào Sài Gòn trong những ngày giữa tháng 4/1975. Không “kham” nổi bầy con trong lúc tao loạn, cô đã được một nhân viên trong tổ chức di tản trẻ mồ côi đồng ý cho các con cô đi Mỹ. Các viên chức tại đây bắt vàng anh phải viết giấy, ký tên đồng ý cho con của mình làm con nuôi nhưng Hoàng Anh nhất mực lắc đầu và dặn đứa con gái lớn hãy thay mẹ coi sóc các em. Đến khoảng những năm 1995, Hoàng Anh được bảo lãnh đi Mỹ và bắt đầu hành trình đi tìm lại những đứa con. Cô liên lạc với Hội Chữ thập đỏ và được biết, một người con của cô đang sống tại Great Falls, bang Missouri. Sau bao lăm năm, đứa con của cô mới bật ra được tiếng gọi: Má, Má ơi!, khi nhìn thấy cô, trong nước mắt chan hòa. Hoàng Anh lại bắt đầu hành trình đi tìm ba người con còn lại, hai trong số đó đã được đưa đến một trọng điểm nuôi dưỡng nhưng không rõ địa điểm. Người con thứ ba tên là Đoàn Văn Bình, đã được một cặp vợ chồng ở Towa nhận nuôi, tức thời vàng anh liên lạc với cặp vợ chồng này. Hoảng hốt vì viễn tượng sẽ… mất con, cặp vợ chồng liền viết thư nề vàng anh hãy xem xét lại việc đòi con. Sau đó, cặp vợ chồng này từ khước việc trả con cho Hoàng Anh và sự việc đã được đệ lên tòa án TP Iowa. Sáu tháng sau, Tòa án tối cao Iowa đã phán quyết rằng cặp vợ chồng này phải trả con lại cho bà Hoàng Anh. Để đi đến phán quyết này, tòa án đã lập luận rằng, bà Hoàng Anh chưa từng bao giờ viết giấy cho những đứa con này làm con nuôi. Tòa án đã nói: Chúng ta hoàn toàn chẳng thể xem việc bà vàng anh từ con mình, có thể hiểu là một dấu hiệu bà ấy đã bỏ rơi chúng. Ngược lại, việc lùng con cái không biết mỏi mệt của bà ấy ở sơn hà này, là biểu hiện một cách xác thực ý định muốn thực hành những bổn phận và bổn phận làm mẹ”. Quốc Định
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét